Khi thời kỳ Trung cổ qua đi,-thời kỳ Phục Hưng bắt đầu ở Châu Âu, các khoản cho vay và tiền gửi phần lớn liên quan tới nhũng khách hàng tương dối giàu có. Điều này làm giảm sự chống đối của tồn giáo đối với hoạt động ngân hàng. Sự phát triển của những con đường thương mại xuyên lục địa mới và những biến chuyển trong ngành hàng hải vào các thế kỷ 15,16, 17 đã dần chuyển trung tâm thương mại của thế giới từ Địa Trung Hải sang Châu Âu và quẩn đảo Anh, nơi ngân hàng trở thành ngành công nghiệp hàng đầu.
Chính giai đoạn này đã gieo mầm cho cuộc cách mạng công nghiệp với yêu cầu về một hệ thống tài chính phát triển. Cụ thể, việc ứng dụng phương thức sản xuất lớn đối hỏi một sự mở rộng tương ứng trong thương mại .toàn cầu để tiếu thụ các sản phẩm công nghiệp, đòi hỏi phải phát triển các phương kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quĩ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng về lĩnh vực bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quĩ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.
Chính giai đoạn này đã gieo mầm cho cuộc cách mạng công nghiệp với yêu cầu về một hệ thống tài chính phát triển. Cụ thể, việc ứng dụng phương thức sản xuất lớn đối hỏi một sự mở rộng tương ứng trong thương mại .toàn cầu để tiếu thụ các sản phẩm công nghiệp, đòi hỏi phải phát triển các phương kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quĩ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng về lĩnh vực bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quĩ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.
Một ví dụ điển hình về quyền lực của các tổ chức tài chính trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng được ghi nhận vào những năm 1980 khi rất nhiều công ty bảo hiểm và kinh doanh chứng khoán lớn, bao gồm cả Merrill Lynch và Dreyíus Corporation, Prudential nhảy vào lĩnh vực ngân hàng bằng cách thành lập cái mà họ gọi là “các ngân hàng phi ngân hàng”. Họ nhận thức được rằng, theo pháp luật nước Mỹ, bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng nít tiền theo yêu cầu (như bằng cách viết séc hay bằng việc nít tiền điện tử) và cho vay đối với các tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một ngân hàng. Merrill Lynch và các tổ chức phi ngân hàng khác nhận định rằng họ có thể né tránh những quy định này và sẽ có thể cung cấp các dịch vụ ngân hàng khác cho công chúng.
Tuy nhiên, Cục Dự trữ liên bang (Fed), không muốn thấy sự xâm phạm vào lĩnh vực ngân hàng của các “ngân hàng giả”, đã đưa ra quyết định rằng: việc cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình cũng là một trong những hoạt dộng ngân hàng tiêu biểu để phân biệt ngân hàng với các tổ chức tài chính khác. Điều đó đưa Merrill Lynch và các tổ chức tương tự trở thành các ngân hàng thực thụ và phải tuân theo quy định chặt chẽ của Chính phủ.